Vinh hoa ở Lưu Tống Lưu_Sưởng_(Lưu_Tống)

Sưởng là con trai thứ 9 của Lưu Tống Văn đế, mẹ là Tạ dung hoa.[1][2] Năm Nguyên Gia thứ 22 (445), Sưởng lên 10 tuổi, được phong tước Nghĩa Dương vương, thực ấp 2000 hộ.[3] Năm thứ 27 (450), Sưởng được làm Phụ quốc tướng quân, Nam Bành Thành, Hạ Bi 2 quận thái thú.[4]

Anh trai Lưu Thiệu giết cha để lên ngôi, tức là Nguyên Hung (453), Sưởng được gia chức Tán kỵ thường thị. Hiếu Vũ đế lật đổ Nguyên Hung, Sưởng được thăng Thái thường, ra làm Đông trung lang tướng, Hội Kê thái thú, ít lâu sau được làm Giám Hội Kê, Đông Dương, Lâm Hải, Vĩnh Gia, Tân An 5 quận chư quân sự. Năm Hiếu Kiến đầu tiên (454), triều đình lập ra Đông Dương Châu, Sưởng được bái làm thứ sử, Đông trung lang tướng như cũ, tiến hiệu Hậu tướng quân.[4]

Năm Đại Minh đầu tiên (457), Sưởng được trưng làm Bí thư giám, lĩnh Kiêu kỵ tướng quân, gia Tán kỵ thường thị, thăng làm Trung quân tướng quân, Nam Bành Thành, Hạ Bi 2 quận thái thú; sau đó được ra làm Đô đốc Giang Châu, Dĩnh Châu chi Tây Dương, Dự Châu chi Tân Thái, Tấn Hi 3 quận chư quân sự, Tiền tướng quân, Giang Châu thứ sử. Năm thứ 3 (459), Sưởng được trưng làm Hộ quân tướng quân, cấp 1 bộ Cổ xuy, tăng ấp ngàn hộ; sau đó được chuyển làm Trung thư lệnh, Trung quân tướng quân, ít lâu được lấy bản hiệu để nhận Khai phủ nghi đồng tam tư, gia Tán kỵ thường thị, Thái thường. Sưởng được theo Hiếu Vũ đế nam tuần, bị kết tội chê bai thuyền rồng của hoàng thái hậu, chịu miễn khai phủ, sau đó lại được gia thụ.[4]

Tiền Phế đế nối ngôi (465), Sưởng được ra làm Sứ trì tiết, Đô đốc Từ, Duyện, Nam Duyện, Thanh, Ký, U 6 châu, Dự Châu chi Lương Quận chư quân sự, Chinh bắc tướng quân, Từ Châu thứ sử, gia Tán kỵ thường thị, Khai phủ như cũ.[4]

Sưởng có tính khinh suất, nóng này, không thể làm việc vừa ý Hiếu Vũ đế, trong niên hiệu Đại Minh thường bị trách mắng; dân gian đồn đãi, thường nói với nhau rằng Sưởng có ý mưu phản. Thời Tiền Phế đế, lời đồn trở nên rất dữ dội. Bấy giờ Tiền Phế đế đã giết nhiều công thần đời trước, rất đỗi buông thả, rồ dại và sai trái, từng nói với tả hữu rằng: "Ta lên ngôi đến nay, chưa từng có giới nghiêm (ý nói chiến tranh), khiến người ta uất ức." Sau khi Giang Hạ vương Lưu Nghĩa Cung bị giết, vào tháng 9 ÂL, Sưởng dâng biểu xin vào chầu, sai Điển thiêm Cừ Pháp Sanh làm sứ giả [lower-alpha 1]. Tiền Phế đế nói với Pháp Sanh: "Nghĩa Dương và Thái tể (tức Lưu Nghĩa Cung) mưu phản, ta chính là muốn đánh dẹp, nay biết xin về, rất hay." Lại nhiều lần tra hỏi Pháp Sanh: "Nghĩa Dương mưu phản, vì sao mày không nói?" Cừ Pháp Sanh sợ vạ, bỏ trốn về Bành Thành. Tiền Phế đế nhân đó bắc tiến, đích thân soái quân vượt Trường Giang.[4][5][6][7]

Cừ Pháp Sanh về đến, Sưởng lập tức tập hợp lực lượng để dấy binh, nhưng các quận dưới quyền không nghe lệnh, đều chém sứ giả của ông, còn tướng tá văn vũ đều sanh lòng khác. Sưởng biết việc không xong, bèn trong đêm cùng vài mươi kỵ binh, mở cửa chạy đường tắt sang Bắc Ngụy, bỏ lại mẹ, vợ, chỉ đem theo 1 ái thiếp là Ngô thị, cho mặc trang phục đàn ông, cũng cưỡi ngựa mà đi [lower-alpha 2].[4][5][6][7][8] Sưởng đem theo hơn 60 người, giữa đường phần nhiều bỏ trốn; tháng 11 ÂL, ông đến được Bắc Ngụy, bên mình chỉ còn chừng 20 người.[7]